Hiện tại, chỉ có 153 trên tổng số 1.500 cơ sở khám chữa bệnh công lập và tư nhân ở Việt Nam đã hoàn tất việc triển khai hồ sơ bệnh án điện tử thành công. Hạn chót để các bệnh viện trên toàn quốc thực hiện nhiệm vụ này là ngày 30 tháng 9 tới.
Gần đây, vào ngày 14 tháng 3, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 07/CT-TTg nhằm tăng cường triển khai đề án phát triển ứng dụng dữ liệu dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ cho quá trình chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, với tầm nhìn đến năm 2030 tại các bộ, ngành và địa phương trong năm 2025 cũng như những năm tiếp theo.
Trong chỉ thị này, Thủ tướng đã giao Bộ Y tế có trách nhiệm chỉ đạo và thúc đẩy 100% các bệnh viện trên toàn quốc tiến hành triển khai hồ sơ bệnh án điện tử; tạo khả năng liên thông dữ liệu giữa các bệnh viện tuyến huyện, tỉnh của địa phương với các bệnh viện thuộc Bộ Y tế, nhằm tối ưu hóa việc sử dụng dữ liệu đã được kết nối để giảm thiểu xét nghiệm cho người dân, hoàn thành trước tháng 9 năm 2025.
Liên quan đến vấn đề này, và nhằm hỗ trợ các cơ sở khám chữa bệnh nhận diện đầy đủ các thách thức trong quá trình triển khai hồ sơ bệnh án điện tử, từ đó tăng tốc thực hiện và đạt hiệu quả cao nhất trước tháng 9 năm 2025, phóng viên Báo Điện tử Chính phủ đã có buổi phỏng vấn với TTND.PGS.TS Trần Quý Tường, Chủ tịch Hội Tin học Y tế Việt Nam.
Hạn cuối để thực hiện là trước ngày 30 tháng 9 năm 2025. PGS.TS Trần Quý Tường: Nhờ sự quan tâm và chỉ đạo sát sao từ Chính phủ, cùng với nỗ lực của ngành Y tế và hỗ trợ từ cộng đồng quốc tế, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong chăm sóc sức khỏe và triển khai hồ sơ bệnh án điện tử tại Việt Nam đã có những bước tiến đáng ghi nhận.
Cụ thể, về mặt thể chế, Bộ Y tế đã ban hành nhiều văn bản quan trọng nhằm tạo hành lang pháp lý cho việc ứng dụng CNTT y tế và triển khai EMR, bao gồm Thông tư số 46/2018/TT-BYT về bệnh án điện tử và Thông tư số 27/2021/TT-BYT về kê đơn thuốc điện tử.
Hiện nay, dựa trên các quy định của Luật khám bệnh, chữa bệnh, Luật Giao dịch điện tử và các văn bản pháp lý liên quan, chúng ta đã có đủ cơ sở pháp lý để thực hiện EMR, với giá trị pháp lý tương đương như hồ sơ bệnh án truyền thống. Ý thức về việc ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong lĩnh vực y tế và hồ sơ bệnh án điện tử của các cán bộ, nhân viên trong ngành đã được cải thiện đáng kể. Nhiều địa phương và đơn vị đã tích cực huy động và phân bổ nguồn lực cho quá trình chuyển đổi số y tế cũng như triển khai hệ thống EMR, điển hình như Sở Y tế Phú Thọ, Sở Y tế Quảng Ninh, và Sở Y tế Hà Nội.
Nhiều cơ sở khám, chữa bệnh đã trang bị máy tính cho toàn bộ bác sĩ và nhân viên có nhu cầu, bên cạnh đó cũng cung cấp mạng không dây miễn phí cho bệnh nhân và người nhà. Đặc biệt, 39,1% các cơ sở khám, chữa bệnh trên toàn quốc đã thiết lập hệ thống an ninh mạng đảm bảo.
Tính đến nay, tất cả 63 Sở Y tế đã thực hiện việc nhập dữ liệu hồ sơ và thông tin từ các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh cùng với thông tin của người hành nghề lên Hệ thống quản lý Quốc gia về đăng ký và cấp phép hành nghề khám chữa bệnh; 100% các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh trên toàn quốc, bao gồm cả khu vực công và tư, đã áp dụng công nghệ thông tin và sử dụng phần mềm quản lý thông tin bệnh viện (HIS).
Trong số các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, có 62,16% đã thành lập bộ phận chuyên trách về công nghệ thông tin, trong đó, 95% bệnh viện hạng I và hạng đặc biệt đã thiết lập phòng công nghệ thông tin, còn các đơn vị khác cũng đã có cán bộ chuyên trách cho CNTT.
Trung bình, mỗi cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có 3,15 nhân viên chuyên trách về công nghệ thông tin; 46,5% bệnh viện đã triển khai dịch vụ đặt lịch khám trực tuyến, trong khi 61,1% bệnh viện thực hiện việc lấy số xếp hàng. Đặc biệt, tất cả các bệnh viện đã hoàn thành việc kết nối phần mềm quản lý thông tin y tế (HIS) với cơ quan bảo hiểm xã hội Việt Nam đạt tỷ lệ 100% để tiến hành giám định bảo hiểm y tế điện tử.
Tính đến tuần đầu tháng 4 năm 2025, có tổng cộng 153 cơ sở khám chữa bệnh trên toàn quốc đã thông báo triển khai hồ sơ bệnh án điện tử và không sử dụng giấy tờ cho bệnh án. Trong số đó, có hai Sở Y tế đã áp dụng hồ sơ bệnh án điện tử cho tất cả các bệnh viện trong quản lý của mình, cụ thể là Sở Y tế Phú Thọ và Sở Y tế Bắc Ninh.
Theo chỉ thị của Thủ tướng tại Chỉ thị số 07/CT-TTg về việc thúc đẩy thực hiện đề án phát triển ứng dụng dữ liệu dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ cho chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, hiện nay các UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đang chỉ đạo quyết liệt Sở Y tế thực hiện hồ sơ bệnh án điện tử tại tất cả các bệnh viện thuộc quyền quản lý.
Tôi tin tưởng rằng đến ngày 30 tháng 9, các bệnh viện trên toàn quốc sẽ hoàn tất việc triển khai hồ sơ bệnh án điện tử mà không cần đến bệnh án giấy. Về thanh toán viện phí điện tử, các cơ sở khám chữa bệnh đã có những bước tiến đáng kể so với năm năm trước. Hiện tại, có 71% cơ sở đã thực hiện phương thức thanh toán điện tử, trong đó 31,4% thông qua kết nối trực tiếp với ngân hàng, 10,5% qua cổng dịch vụ công quốc gia và 15,4% qua các hình thức khác; còn lại 29% bệnh viện vẫn sử dụng tiền mặt để thanh toán.
Nhận diện năm thách thức lớn
Theo PGS.TS. Trần Quý Tường, một số thách thức chính trong việc triển khai EMR tại Việt Nam bao gồm:
Thứ nhất, hạ tầng số của ngành y tế vẫn chưa đáp ứng yêu cầu, tạo ra rào cản cho việc áp dụng bệnh án điện tử. Điều này dẫn đến tổng chi phí (TCO) triển khai cao và cần huy động nhiều nguồn lực để cân đối.
Yếu tố này rất quan trọng và cần được xem xét nghiêm túc về tính sẵn sàng, bao gồm chính sách, hạ tầng công nghệ thông tin, nguồn nhân lực và tài chính trong quá trình triển khai bệnh án điện tử.
Thứ hai, một số Giám đốc bệnh viện vẫn chưa thực sự chú trọng, chưa nhận diện được lợi ích và ý nghĩa của việc triển khai EMR, do đó chưa có sự chủ động trong việc áp dụng hồ sơ bệnh án điện tử tại bệnh viện. Thứ ba, việc triển khai hồ sơ bệnh án điện tử sẽ tác động đến thói quen, quy trình làm việc của toàn bộ bệnh viện, chuyển từ phương pháp truyền thống sang phương pháp khoa học trên nền tảng mạng, điều này đòi hỏi sự chỉ đạo mạnh mẽ từ cấp lãnh đạo và sự tham gia tích cực của tất cả nhân viên y tế.
Thứ tư, do phần lớn y tế công lập ở Việt Nam, nên Bộ Y tế cần thiết lập quy định về cơ chế tài chính để các bệnh viện công có kinh phí thực hiện EMR. Hiện tại, chưa có hướng dẫn cụ thể về chế độ tài chính cho ứng dụng công nghệ thông tin trong y tế, đặc biệt là đối với hồ sơ bệnh án điện tử, khiến nhiều bệnh viện phải sử dụng quỹ đầu tư phát triển của mình để đầu tư vào công nghệ thông tin, gây ảnh hưởng tới các hoạt động khác.
Thứ năm, trình độ công nghệ thông tin của cán bộ, nhân viên y tế còn hạn chế và không đồng đều giữa các cơ sở khám chữa bệnh trên toàn quốc.
Giải pháp để sẵn sàng áp dụng hồ sơ bệnh án điện tử một cách đồng bộ. PGS.TS Trần Quý Tường nhấn mạnh rằng Bộ Y tế cần tiếp tục chú trọng và chỉ đạo mạnh mẽ hơn trong việc thúc đẩy chuyển đổi số trong lĩnh vực y tế, đặc biệt là trong việc triển khai hệ thống bệnh án điện tử (EMR). Các đơn vị của Bộ Y tế cũng nên tích cực tham gia, chủ động tư vấn và đề xuất các chính sách, giải pháp cho Lãnh đạo Bộ nhằm thực hiện quá trình chuyển đổi này.
Ông cũng lưu ý rằng cần tập trung vào việc đồng bộ hóa các nền tảng, hệ thống ứng dụng và cơ sở dữ liệu chuyên ngành để tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng bệnh án điện tử. Điều này sẽ là một giải pháp thiết thực và là động lực quan trọng để đảm bảo sự sẵn sàng cho việc triển khai bệnh án điện tử một cách đồng bộ.
Ngoài ra, cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các cơ chế, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật cùng tài liệu chuyên môn liên quan đến chuyển đổi số y tế và triển khai EMR.
Cuối cùng, cần nhanh chóng ban hành quy định về giá dịch vụ khám bệnh và chữa bệnh theo Điều 110 của Luật Khám bệnh, chữa bệnh (có hiệu lực từ ngày 1/1/2024), trong đó có quy định về việc tính chi phí công nghệ thông tin, giúp các cơ sở y tế có nguồn kinh phí để thực hiện chuyển đổi số và triển khai EMR. Bộ Y tế cần áp dụng các biện pháp chế tài đối với những đơn vị và địa phương không tuân thủ quy trình triển khai EMR đã được xác định. Đồng thời, cần chú trọng hơn đến công tác thi đua, khen thưởng để động viên các địa phương, đơn vị thực hiện tốt việc triển khai EMR, từ đó tạo ra mô hình hiệu quả cho việc học hỏi và chia sẻ kinh nghiệm.
Giám đốc các bệnh viện cần nhận thức rõ ràng về lợi ích và tầm quan trọng của việc triển khai EMR, đồng thời phải chủ động và quyết liệt trong việc thực hiện hồ sơ bệnh án điện tử tại bệnh viện, bao gồm cả việc đầu tư nguồn lực cho công nghệ thông tin hàng năm một cách hợp lý.
Cần tăng cường sự hợp tác giữa cơ quan quản lý nhà nước về y tế với các hiệp hội nghề nghiệp, doanh nghiệp, địa phương và chuyên gia liên quan nhằm đảm bảo việc triển khai bệnh án điện tử trên toàn quốc đạt hiệu quả và thiết thực.
Ngoài ra, cần nâng cao nhận thức và năng lực công nghệ thông tin của cán bộ, nhân viên y tế thông qua các buổi hội thảo chuyên đề cũng như các khóa đào tạo, tập huấn về công nghệ thông tin trong lĩnh vực y tế.